Thai nghén nguy cơ cao là gì? Các công bố khoa học về Thai nghén nguy cơ cao

Nguy cơ cao của bệnh nghén nguy cơ cao (Thai nghén nguy cơ cao - TNC) là một tình trạng mà thai nhi bị nén hoặc bị kẹp trong tử cung của bào thai trong thời gia...

Nguy cơ cao của bệnh nghén nguy cơ cao (Thai nghén nguy cơ cao - TNC) là một tình trạng mà thai nhi bị nén hoặc bị kẹp trong tử cung của bào thai trong thời gian dài, gây ra nhiều vấn đề và tác động tiêu cực cho thai nhi. Các nguy cơ cao bao gồm:

1. Thiếu oxy: Thai nhi bị nén hoặc bị kẹp trong tử cung có thể gặp khó khăn trong việc nhận được đủ oxy từ mẹ. Điều này có thể gây ra thiếu oxy trong máu của thai nhi, gây ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển của các cơ quan trong cơ thể.

2. Hạn chế di chuyển: Khi bị nén hoặc kẹp trong tử cung, thai nhi không có đủ không gian để di chuyển. Điều này có thể dẫn đến tình trạng co rút cơ bắp và giới hạn sự phát triển của các cơ và xương.

3. Vấn đề về hệ thần kinh: Bị nén hoặc kẹp trong tử cung có thể gây ra áp lực lên hệ thần kinh của thai nhi, ảnh hưởng đến sự phát triển của não bộ và hệ thần kinh trung ương.

4. Vấn đề hô hấp: Thiếu oxy và không gian hạn chế có thể gây ảnh hưởng đến hệ hô hấp của thai nhi, gây ra các vấn đề như suy hô hấp và khó thở.

5. Rối loạn hệ tuần hoàn: Thai nhi bị nén hoặc bị kẹp trong tử cung có thể gặp khó khăn trong việc nắm bắt dòng máu từ mẹ thông qua dây rốn. Điều này có thể gây ra các vấn đề về hệ tuần hoàn và dẫn đến sự suy giảm chức năng của cơ quan và mô trong cơ thể.

Bệnh nghén nguy cơ cao là một tình trạng nguy hiểm và cần được theo dõi và điều trị sớm để giảm thiểu các tác động tiêu cực cho thai nhi.
Dưới đây là một số chi tiết hơn về nguy cơ cao của bệnh nghén nguy cơ cao (TNC):

1. Thiếu oxy: Khi thai nhi bị nén hoặc kẹp trong tử cung, lưu lượng máu và oxy không đủ được cung cấp đến thai nhi. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng thiếu oxy (hay gọi là hiệu ứng hypoxia) trong máu của thai nhi. Thiếu oxy trong môi trường tử cung có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ quan và hệ thống trong cơ thể, đặc biệt là não bộ.

2. Hạn chế di chuyển: Thai nhi thường có nhu cầu di chuyển trong tử cung để phát triển toàn diện cơ thể. Khi bị nén hoặc kẹp, thai nhi không có đủ không gian để di chuyển, làm giảm khả năng phát triển cơ bắp và xương của thai nhi. Điều này có thể gây ra các vấn đề về tăng trưởng, đặc biệt là ở cơ bắp và xương.

3. Vấn đề hệ thần kinh: Áp lực từ nén hoặc kẹp trong tử cung có thể gây ra tác động tiêu cực đến hệ thần kinh của thai nhi. Điều này có thể làm giảm phát triển và chức năng của não bộ và các hệ thống thần kinh khác, như hệ thần kinh trung ương.

4. Vấn đề hô hấp: Diện tích không gian hạn chế và thiếu oxy trong tử cung có thể gây ra những vấn đề liên quan đến hệ hô hấp của thai nhi. Thai nhi bị nghén nguy cơ cao có thể gặp khó khăn trong việc hô hấp và trao đổi không khí thông qua phổi, gây ra những vấn đề như suy hô hấp và khó thở.

5. Rối loạn hệ tuần hoàn: Thai nhi bị nghén nguy cơ cao có thể gặp khó khăn trong việc nhận dòng máu giàu oxy và dưỡng chất từ mẹ thông qua dây rốn. Điều này có thể dẫn đến sự suy giảm chức năng của cơ quan và mô trong cơ thể, gây ra những vấn đề liên quan đến hệ tuần hoàn.

Những nguy cơ cao này đều đòi hỏi sự quan tâm và can thiệp y tế kịp thời để giảm thiểu các tác động tiêu cực đến sự phát triển và sức khỏe của thai nhi.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thai nghén nguy cơ cao":

Giá trị của siêu âm Doppler động mạch tử cung ở tuổi thai 11-13 tuần 6 ngày ở sản phụ thai nghén nguy cơ cao trong dự đoán sớm tiền sản giật
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 79-82 - 2014
Đánh giá giá trị dự đoán sớm TSG thông qua chỉ số trở kháng RI , chỉ số xung PI của Doppler ĐMTC trên những sản phụ thai nghén nguy cơ cao. Trong thời gian từ 1/1/2012 – 15/9/2012 có 113 bệnh nhân được lấy vào nghiên cứu trong đó có 40 trường hợp xuất hiện các dấu hiệu TSG sau 32 tuần tuổi thai, chiếm 35,4 % và 73 thai phụ không có biểu hiện bệnh lý bất thường cho tới khi sinh chiếm 64,6% Tuổi trung bình của các bà mẹ trong nghiên cứu là 31,2 với nhóm TSG là 31,7 và nhóm thai nghén bình thường là 30,8, sự khác biệt về tuổi giữa 2 nhóm chưa có ý nghĩa thống kê. Tuổi thai trung bình ở thời điểm làm siêu âm là 12 tuần 5 ngày, nhỏ nhất là 11 tuần và lớn nhất là 13 tuần 6 ngày. Ngưỡng sàng lọc phù hợp để dự đoán Tiền sản giật đối với chỉ số kháng RI động mạnh tử cung phải là 0,69 với độ nhạy 67,5%, độ đặc hiệu 61,64 %, ĐMTC trái là 0,70 với độ nhạy 65%, độ đặc hiệu 61,64 %.Với chỉ số xung PI của ĐMTC phải là 1,39 với độ nhạy 65%, độ đặc hiệu 65,75 %, với ĐMTC trái là 1,43 với độ nhạy 67,50 %, độ đặc hiệu 67,12 %. Kết luận: Siêu âm Doppler ĐMTC ở tuổi thai 11 – 13 tuần 6 ngày rất có giá trị trong dự đoán sớm TSG ở những thai phụ thai nghén nguy cơ cao.
#Tiền sản giật #Doppler #thai nghén nguy cơ cao
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả thai kỳ ở thai phụ tiền sản giật – sản giật tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông
Tạp chí Phụ Sản - Tập 19 Số 1 - Trang 30-37 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng các sản phụ tiền sản giật – sản giật tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông và kết quả thai kỳ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 47 sản phụ được chẩn đoán tiền sản giật - sản giật nhập viện theo dõi điều trị tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông trong khoảng thời gian từ tháng 5/2019 đến 5/2020. Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng xuất hiện trong quá trình điều trị gồm các triệu chứng của bệnh, phản ánh tổn thương đa cơ quan liên quan đến tiền sản giật - sản giật. Kết quả thai kỳ gồm thời điểm, phương pháp chấm dứt thai kỳ và các biến chứng trên mẹ và con. Kết quả: Tỷ lệ tiền sản giật – sản giật chung là 0,8%, trong đó 0,2% trường hợp non tháng và 0,3% trường hợp bệnh nặng. 29,8% trường hợp tiền sản giật có dấu hiệu phù bệnh lý, 80,8% trường hợp tiền sản giật có tăng huyết áp mức độ 1, nhóm tiền sản giật nặng có 61,9% trường hợp tăng huyết áp độ 3. Nồng độ axit uric ở nhóm tiền sản giật nặng (405,1 ± 85,5 µmol/l) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm không có dấu hiệu nặng (340,3 ± 82,8 µmol/l) với p < 0,05. Tỷ lệ mổ lấy thai chung ở nhóm sản phụ tiền sản giật là 87,2%, tỷ lệ này ở nhóm tiền sản giật nặng lên đến 95,2%. Nhóm tiền sản giật nặng có cân nặng trẻ sơ sinh thấp hơn, tuổi thai kết thúc thai kỳ nhỏ hơn so với nhóm không có dấu hiệu nặng. Biến chứng sản giật và tử vong chu sinh chiếm 2,1% và đều xảy ra ở nhóm tiền sản giật nặng. Kết luận: Tỷ lệ tiền sản giật – sản giật ở Bệnh viện Hà Đông tương đối thấp, tuy nhiên tỷ lệ mổ lấy thai ở ở nhóm bệnh nhân này khá cao, đặc biệt ở nhóm bệnh nặng. Cân nặng trẻ sơ sinh, tỷ lệ sinh non, tỷ lệ các biến chứng đều theo chiều hướng bất lợi ở nhóm tiền sản giật nặng.
#Rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ #tiền sản giật #sản giật #thai nghén nguy cơ cao
Thái độ xử trí thai phụ Lupus ban đỏ hệ thống tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương trong 2 năm 2010 - 2011
Tạp chí Phụ Sản - Tập 11 Số 2 - Trang 31-33 - 2013
Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của Lupus lên sản phụ và thai nhi trong những tháng cuối của thai kỳ và thái độ xử trí. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu dựa trên hồ sơ của các sản phụ Lupus nhập viện theo dõi tại khoa Sản bệnh lý, khoa đẻ Bệnh viện Phụ sản trung ương và đẻ tại viện. Kết quả: Có 24 hồ sơ đủ tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu trong thời gian từ tháng 1 năm 2010 đến hết tháng 11 năm 2011. Tuổi trung bình của các sản phụ là 29,95, con so chiếm 62,5% và con dạ chiếm 37,5%.Biến chứng TSG chiếm 29,2%, biến chứng thai suy dinh dưỡng chậm phát triển trong tử cung chiếm 46%. Tỷ lệ mổ lấy thai 91,66% trong đó có 15 trường hợp ĐCTN và 7 trường hợp chuyển dạ tự nhiên. Không có tử vong mẹ và thai nhi. Kết luận: Lupus và thai nghén là một tình trạng thai nghén nguy cơ cao cho mẹ và thai nhi, việc theo dõi, điều trị kết hợp giữa thày thuốc chuyên khoa và bác sỹ sản khoa giúp cho việc phát hiện sớm biến chứng bệnh và có thái độ xử trí kịp thời. Đình chỉ thai nghén bằng mổ lấy thai cho kết quả tốt, ít tai biến, an toàn cho sản phụ và thai nhi.
#lupus #tiền sản giật #thai suy dinh dưỡng chậm phát triển trong tử cung #thai nghén nguy cơ cao
Nghiên cứu một số trường hợp thai nghén nguy cơ cao có vận tốc tâm trương động mạch rốn bằng 0 hoặc xuất hiện dòng chảy ngược chiều
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 99-102 - 2014
Mục tiêu: Nhận xét một số trường hợp thai nghén nguy cơ cao có vận tốc tâm trương động mạch rốn bằng 0 hoặc xuất hiện dòng chảy ngược chiều điều trị tại Khoa Sản III Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng trong 3 năm 2011 –2013. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang trên 43 thai phụ có yếu tố nguy cơ với thai nghén từ năm 2011 – 2013 tuổi thai từ 28 tuần siêu âm Doppler động mạch rốn thai nhi vận tốc tâm trương bằng 0 hoặc xuất hiện dòng chảy ngược chiều. Kết quả: tuổi thai phụ chiếm tỷ lệ cao nhất 30-34: 30,23%; tỷ lệ gặp trong tiền sản giật nặng là 58,14%; tỷ lệ mổ lấy thai là 74,42%; tỷ lệ thai chết trong nghiên cứu 32,55%. Kết luận: Trong số các yếu tố nguy cơ, phổ tâm trương ĐMR bằng 0 hoặc xuất hiện dòng chảy ngược chiều gặp chủ yếu ở TSG, TSG nặng là 58,14%. Nhóm tuổi thai hay gặp 33-37 tuần. Cách kết thúc thai nghén bằng mổ lấy thai tỷ lệ 74,42%. Tỷ lệ thai chết trong nghiên cứu 32,55%, trong đó chết sau sinh 18,6%, chết trong TC 13,95%.
20. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ THAI KỲ Ở THAI PHỤ TIỀN SẢN GIẬT - SẢN GIẬT TẠI BỆNH VIỆN A THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số 3 - Trang - 2024
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị thai kỳ của sản phụ tiền sản giật – sản giật tại Bệnh viện A Thái Nguyên Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 67 sản phụ được chẩn đoán tiền sản giật - sản giật nhập viện theo dõi điều trị tại Bệnh viện A Thái Nguyên trong khoảng thời gian từ tháng 4/2022 đến 4/2023. Kết quả: Tỷ lệ tiền sản giật – sản giật chung là 1,28%, trong đó 0,4% trường hợp non tháng và 0,54% trường hợp bệnh nặng. 32,8% trường hợp tiền sản giật có dấu hiệu phù bệnh lý, 38,5% trường hợp tiền sản giật có trị số huyết áp < 140/90 mmHg , nhóm tiền sản giật nặng có 60,7% trường hợp có trị số huyết áp >160/110 mmHg. Nồng độ axit uric ở nhóm TSG nặng (402,6 + 78,6 µmol/l) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm TSG không có triệu chứng nặng (342,6 + 80,2 µmol/l), p < 0.05. Tỷ lệ mổ lấy thai ở nhóm TSG là 86,5% , tỷ lệ này ở nhóm TSG nặng lên đến 96,4%. Biến chứng sản giật và tử vong chu sinh chiếm 1,5% và đều xảy ra ở nhóm tiền sản giật nặng. Kết luận: Tỷ lệ tiền sản giật – sản giật ở Bệnh viện A Thái Nguyên tương đối thấp, tuy nhiên tỷ lệ mổ lấy thai ở ở nhóm bệnh nhân này khá cao, đặc biệt ở nhóm bệnh nặng. Tỷ lệ sinh non, tỷ lệ các biến chứng đều theo chiều hướng bất lợi ở nhóm tiền sản giật nặng.
#Tiền sản giật #rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ #thai nghén nguy cơ cao.
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH TRẦM CẢM Ở PHỤ NỮ THAI NGHÉN NGUY CƠ CAO ĐANG ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN - NHI ĐÀ NẴNG
  Đặt vấn đề: Trầm cảm ở phụ nữ mang thai nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời thì sẽ gây những tác hại đáng kể cho cả mẹ và con, đặc biệt ở những phụ nữ thai nghén nguy cơ cao: làm tăng nguy cơ sinh non, sinh trẻ nhẹ cân, ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần, tính cách của trẻ trong tương lai; hoặc  tăng nguy cơ trầm cảm sau sinh, mắc bệnh tâm thần đối với mẹ. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ trầm cảm theo thang đo Edinburgh (EPDS) và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở phụ nữ thai nghén nguy cơ cao đang điều trị tại Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến hành trên 312 phụ nữ thai nghén nguy cơ cao đang điều trị tại Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng từ tháng 2 đến tháng 9 năm 2022. Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ thai nghén nguy cơ cao là 36,5% và một số yếu tố liên quan: sống một mình; tiền sử có mắc Covid – 19, bệnh lý về máu; có hút thuốc lá, thai kỳ lần này không mong đợi, có rối loạn giấc ngủ và có lo lắng buồn phiền khác kèm theo (p<0,05). Kết luận: Tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ thai nghén nguy cơ cao có xu hướng tăng, bên cạnh các yếu tố liên quan đến tiền sử bệnh tật thì một số yếu tố tâm lý, xã hội cũng đóng vai trò quan trọng để làm tăng tỷ lệ trầm cảm. 
#Thai nghén nguy cơ cao #trầm cảm #thang đo trầm cảm sau sinh (EPDS)
Nghiên cứu đặc điểm và thái độ xử trí sản phụ con so mẹ lớn tuổi tại Bệnh viện Trung Ương Huế
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 3 - Trang 82 - 87 - 2017
Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu một số đặc điểm của sản phụ lớn tuổi mang thai con so và đánh giá kết quả xử trí đối với sản phụ lớn tuổi mang thai con so. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên đối tượng là 60 sản phụ lớn tuổi sinh con so vào sinh tại khoa Phụ sản – Bệnh viện Trung ương Huế, thời gian từ tháng 5/2016 đến tháng 3/2017. Kết quả: Tuổi trung bình là 37,35 ± 2,97. Nguyên nhân hay gặp của mẹ lớn tuổi sinh con so là kết hôn muộn (60,0%), tỷ lệ vô sinh chiếm 16,7%. Bệnh lý của mẹ trong khi có thai bao gồm: thiếu máu (18,3%); tiền sản giật (13,3%); rau tiền đạo (3,3%). Biến chứng con gồm: thai suy (25,0%), sinh non (23,3%), cân nặng sơ sinh thấp (25,0%), trẻ dị tật (5,0%), chỉ số Apgar phút thứ nhất ≤ 7 (31,7%), sơ sinh bệnh lý (35,0%). Biến chứng trong và sau sinh: chuyển dạ kéo dài (16,7%); nhiễm trùng hậu sản (13,3%); chảy máu sau sinh (5,0%). Phương pháp kết thúc thai kỳ: chuyển dạ tự nhiên 40,0%, khởi phát chuyển dạ 18,3%, mổ chủ động 41,7%. Có 70,0% trường hơp mổ lấy thai, trong đó nguyên nhân hàng đầu là suy thai (25,0%). Các nguy cơ thiếu máu, tiền sản giật, chuyển dạ kéo dài, chảy máu sau sinh, trẻ sinh non, cân nặng sơ sinh thấp, trẻ dị tật, Apgar 1 phút ≤ 7, tỷ lệ sơ sinh bệnh lý, tỷ lệ mổ lấy thai tăng liên quan tuổi mẹ với p < 0,05. Kết luận: Mẹ lớn tuổi sinh con so phải đối mặt với nhiều rủi ro cả về mẹ, con và kết cục thai kỳ.
#con so #mẹ lớn tuổi #thai nghén nguy cơ cao.
Đái tháo đường thai kỳ tăng tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B
Tạp chí Phụ Sản - Tập 19 Số 2 - Trang 54-60 - 2021
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và liên quan đến nguy cơ mang liên cầu khuẩn nhóm B tại thời điểm 35 - 37 tuần. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ, tiến cứu trên 1.574 sản phụ quản lý thai kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City từ 01/2019 - 01/2020. Sàng lọc và chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ bằng nghiệm pháp dung nạp 75 gram glucose - 2 giờ tại thời điểm 24 - 28 tuần, liên cầu khuẩn nhóm B được xét nghiệm bằng mẫu dịch âm đạo khi thai 35 - 37 tuần. Tất cả thai phụ được quản lý đến kết thúc thai kỳ. Kết quả: Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ là 6,2% (98/1.574), nhóm đái tháo đường thai kỳ có tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B tại thời điểm 35 - 37 tuần cao hơn nhóm không bị đái tháo đường, 34,7% so với 16,3%, p < 0,0001. Sản phụ bị đái tháo đường thai kỳ kèm mang liên cầu khuẩn nhóm B tăng nguy cơ sinh non (OR 4,9; 95%CI: 1,8 - 13,3), mổ lấy thai (OR 4,1; 95%CI: 1,7 - 9,9), tăng nguy cơ trẻ sơ sinh cần nhập Đơn vị chăm sóc tích cực (OR 2,9; 95%CI: 1,0 - 8,6) và nguy cơ hạ đường huyết sơ sinh (OR 3,2; 95%CI: 1,1 - 9,3). Tuy nhiên, chưa phát hiện liên quan đến tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh sớm, tỷ lệ trẻ sơ sinh ngạt. Kết luận: Đái tháo đường thai kỳ tăng tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B tại thời điểm 35 - 37 tuần thai kỳ.
#Đái tháo đường thai kỳ #liên cầu khuẩn nhóm B #thai nghén nguy cơ cao
Tổng số: 8   
  • 1